Ngày 11 tháng 3 năm 2004, con gái tôi phải nhập viện lần thứ hai vì căn bệnh u máu. Lúc đó, tôi rơi vào cảnh túng quẫn, không biết xoay xở thế nào để lo cho con. May mắn thay, tôi gặp chị Nga – một người phụ nữ sinh năm 1980, dáng người mảnh mai, hay mặc áo trắng. Chị đã dang tay giúp đỡ mẹ con tôi trong lúc khó khăn nhất. Chị cho tôi mượn 8 chỉ vàng 9999 để tôi có tiền chạy chữa cho con. Không chỉ vậy, chị còn đưa tôi từ Bệnh viện Nhi về tận Phú Thọ, quê chị, để lấy vàng.

Tôi còn nhớ rõ chuyến đi ấy. Nhà chị nằm ở một vùng quê yên bình, phải đi qua một con sông bằng phà. Từ ga cuối cùng gần một doanh trại bộ đội nhỏ – nơi có hai trụ bê tông và tấm biển sắt sơn đỏ bắc ngang – tôi xuống tàu, đi bộ qua một con đường nhỏ, nơi người dân bày bán đầy quả cọ và táo mèo khô, rồi mới ra đến bến phà. Trên phà, tôi ấn tượng mãi với một cây cổ thụ to lớn, gốc cây tỏa ra nhiều dây rễ trông giống cây xi, đứng sừng sững bên bến. Nhà chị là một khu nhà sàn của người dân tộc, xung quanh là vườn ngô xanh mướt và một vườn hoa rực rỡ trước sân. Chị kể với tôi rằng gia đình chị có ba chị em gái, ông nội chị là trưởng họ, còn mẹ chị thì nhiệt tình và tốt bụng.

Khi đến nhà, chị lấy cho tôi 8 chỉ vàng đựng trong một chiếc hộp gỗ màu nâu chạm hình con cóc. Gia đình chị tiếp đãi tôi bằng món bánh sắn và lá sắn muối kho cá – một hương vị dân dã mà tôi không thể quên. Trước khi tôi về, ông nội chị còn cho tôi một lá bùa, bảo rằng nó sẽ giúp “đuổi ma” để con gái tôi mau khỏi bệnh. Mẹ chị cũng gói ghém cho tôi mấy con cá khô loại to, gác bếp lâu năm, vỏ ngoài đen thui nhưng thịt bên trong vẫn vàng nhạt, thơm lừng.

Từ năm 2003 đến 2005, mỗi lần đưa con ra viện, tôi cố gắng trả dần cho chị, mỗi lần được một chỉ vàng. Lúc đó, chị trọ một mình ở Cầu Giấy, Hà Nội. Chị sống giản dị, nhưng luôn quan tâm đến mẹ con tôi. Năm 2006, chị về thăm tôi một lần ở Bắc Ninh. Tôi biết chị về để đòi nợ, nhưng hoàn cảnh tôi lúc đó quá nghèo, con vẫn nằm viện triền miên. Thấy vậy, chị không nỡ trách móc, còn ra chợ mua cho tôi một bao gạo, hai túi mì tôm và một ít thịt. Chị ngồi ăn cơm với tôi, rồi lặng lẽ ra đi. Đó là lần cuối cùng tôi gặp chị.

Từ năm 2008, tôi mất liên lạc với chị hoàn toàn. Dù vậy, tôi chưa bao giờ ngừng tìm kiếm. Năm nào tôi cũng nhờ người dò hỏi tin tức. Năm 2009, tôi về Phú Thọ hai ngày, rồi năm 2015, tôi lại đến ga Đoan Phượng, ở đó hai ngày rưỡi, nhưng vẫn không tìm được tung tích chị. Đến giờ, tôi vẫn còn nợ chị 3 chỉ vàng – món nợ không chỉ là vật chất, mà còn là ân tình sâu nặng mà chị đã dành cho mẹ con tôi.

Tôi biết ơn chị Nga không chỉ vì số vàng ấy, mà còn vì cách chị chăm sóc con gái tôi khi cháu nằm viện, để tôi có thời gian đi làm thêm nuôi con. Hồi đó, tôi làm bưng bê ở quán phở Hợp ngay cổng Bệnh viện Nhi đồng và Phụ sản, từ 5 giờ sáng đến 9 giờ sáng, vừa làm vừa cầu mong con mau khỏe. Có một kỷ niệm tôi không quên, ngày 30 tháng 4 năm 2004, chị đưa tôi đi chùa Quốc Tuấn – có lẽ là chùa Trấn Quốc – để cầu bình an. Lúc đó, chị vừa chữa bệnh xong, trọ gần chùa Hà ở Cầu Giấy. Chị mua cho tôi một đôi giày, còn chiếc quần âu tôi mặc là do anh Liêm – bạn chị ở Đống Đa – tặng, áo sơ mi thì được em Mây cho lại áo cũ. Chúng tôi chụp một bức ảnh kỷ niệm, và đó là khoảng thời gian hiếm hoi tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm giữa bao khó khăn.

Chị Nga ơi, bao năm nay tôi vẫn đi tìm chị, mang theo nỗi day dứt về 3 chỉ vàng chưa trả và lòng biết ơn không lời nào diễn tả hết. Nhưng hôm nay, ngày 13 tháng 3 năm 2025, khi tôi đang ngồi viết lại câu chuyện này để nhờ cộng đồng tìm chị, chuông cửa nhà tôi bỗng reo lên. Tôi ra mở cửa, ngỡ ngàng thấy một người phụ nữ đứng đó, dáng mảnh mai, mặc áo trắng, nụ cười hiền hậu như ngày nào. Chị nói: “Chị nghe người ta kể về em, về quán phở Hợp, nên tìm đến. Chị không cần vàng, chị chỉ muốn biết con bé đã khỏe chưa thôi.” Tôi bật khóc, không tin nổi sau bao năm xa cách, chị Nga – ân nhân của mẹ con tôi – lại xuất hiện ngay trước mắt, như một phép màu giữa đời thường.